Một góc nhìn khác về tư duy chiến lược: Tại sao chúng ta thường để tay nhanh hơn não
Một góc nhìn khác về tư duy chiến lược: Tại sao chúng ta thường để tay nhanh hơn não

 

Chúng ta thường suy nghĩ theo hai cách về cơ bản là khác nhau: một là tìm ra rằng chúng ta muốn gì và hai là tìm cách để có thể đạt được nó. Hay nói theo cách khác, điểm khác biệt quan trọng giữa chúng là tư duy chiến lượctư duy hành động. Chiến lược là để xác định mục tiêu tối cao, và thực thi bao gồm tất cả những gì ta làm để theo đuổi thứ mà chúng ta đã đề ra: những hành động khiến kế hoạch của ta đi vào hoạt động.

 

Chúng ta thường mặc nhiên cho rằng ta giành rất nhiều thời gian vào chiến lược trước khi biến nó thành hành động - tuy nhiên dù cho thực hiện thành công đến đâu, điều quan trọng là chúng ta phải có một kế hoạch đúng ngay từ đầu. Kết quả của chúng ta chỉ có thể tốt nếu như mục tiêu mà ta đề ra cũng tốt y như thế.

 

Nhưng có một nghịch lý trong cách mà tâm trí ta vận hành: như một quy luật chung chúng ta đều làm tốt phần “làm” hơn là “nghĩ”. Ta dường như có một nội lực để vượt qua các chướng ngại trên đường tới thành công và một nội lực tương đương để tạm dừng và suy nghĩ về việc mục tiêu đó đúng đắn như thế nào. Dường như chúng ta đang thiếu hiểu biết về chiến lược bởi vì ta đang say mê hiện thực hóa nó.

 

Ta thấy kết quả của sự thiên vị này qua nhiều lĩnh vực. Ta tập trung nhiều vào việc kiếm tiền hơn là tìm cách để chi tiêu hợp lí. Ta nỗ lực nhiều hơn vào việc trở nên ‘thành công’ hơn là nghĩ về việc định nghĩa khái niệm thành công có thể khiến ta hài lòng. Ở mức độ tập thể, các tập đoàn cố gắng tạo ra hiệu quả bán hàng hóa hay dịch vụ thay vì lùi lại và suy nghĩ về những gì họ đang làm cho khách hàng. Các quốc gia cam kết tăng trưởng GDP thay vì thăm dò những lợi ích khi sức mua tăng lên. Nhân loại rõ ràng là giỏi cơ khí hơn là triết học: máy bay của chúng ta ấn tượng hơn nhiều việc ta nghĩ xem nên đi để làm gì; khả năng kết nối của ta rõ ràng là vượt xa so với cách mà ta thấu hiểu người khác.

 

Trong mọi trường hợp, ta thường tập trung nhiều vào cơ chế, công cụ hơn là những câu hỏi ta đặt ra cho tới khi ra được thành quả cuối cùng. Ta dị ứng với những câu hỏi lớn được đặt lên hàng đầu: cuối cùng thì ta đang cố gắng làm gì? Cái gì sẽ khiến ta hạnh phúc hơn? Tại sao phải bận tâm chuyện này? Nó có mang lại giá trị gì cho chúng ta hay không?

 

Và thế là sự thiên vị về mặt hành động này dẫn tới những hệ quả bi kịch: ta điên cuồng lao tới mục tiêu đã chọn, ta mù quáng vắt kiệt sức của mình, ta trói buộc mình vào các lịch trình, khung thời gian và các chỉ tiêu - nhưng cùng với đó, ta không dám tự hỏi rằng ta cần gì để phát triển và vào cuối cuộc đời nỗ lực như một siêu nhân, ta nhận ra rằng mình đã chọn sai đích đến ngay từ đầu.

 

Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi tâm trí ta thiên vị việc hành động hơn là suy nghĩ về chiến lược. Từ quan điểm tiến hóa, nghiền ngẫm các câu hỏi về mặt chiến lược có lẽ chưa bao giờ là một ưu tiên hàng đầu. Trong lịch sử, mục tiêu chiến lược có vẻ rõ ràng: kiếm đủ ăn, duy trì nòi giống, vượt qua mùa đông và bảo vệ bộ lạc khỏi các cuộc tấn công. Hành động là việc bức thiết phải làm để vượt qua gian khó: làm sao để nhóm lửa trong thời tiết ẩm ướt, tạo ra mũi tên sắc nhọn hơn, tìm dâu rừng ở đâu hay lá thuốc nào có thể kháng viêm… Chúng ta là hậu duệ của một giống loài tìm ra một chuỗi những khám phá phức tạp để phục vụ vài mục tiêu cơ bản. Chỉ trong điều kiện của xã hội hiện đại - nơi mà ta bị bao vây bởi những lựa chọn dữ dội về việc ta làm gì với cuộc sống và khi mà mục tiêu của chúng ta là hạnh phúc thay vì chỉ sống sót qua ngày - những câu hỏi về mục tiêu mới càng trở nên cần thiết và không thể né tránh.

 

Chương trình đào tạo của chúng ta từ khi còn bé đã chuẩn bị cho ta phát triển kiểu này. Ở trường, ‘chăm học’ có nghĩa là nghiêm túc tuân theo thời khóa biểu, không phải băn khoăn rằng liệu việc đó có đúng hay không. ‘Sao lại phải học môn này’ có vẻ xúc phạm hay thiếu lễ độ với nhiều giáo viên thay vì coi đó là một tư duy đặc biệt đáng ngưỡng mộ. Khi ta bắt đầu làm việc, hầu hết các công ty đều muốn người làm thuê làm theo lệnh thay vì suy nghĩ về tính đúng đắn của nó. Ta có lẽ sẽ chạm tới tuổi trung niên trước khi có những ý niệm đầu tiên về tư duy chiến lược.

 

Ngay trong đời sống hàng ngày, đặt ra những câu hỏi mang tính chiến lược khiến người ta có cảm giác chán nản. Việc hỏi ‘làm thế này để làm gì?’ nghe có vẻ như một câu hỏi khiêu khích. Nếu ta hỏi người thân, dù có nghiêm túc đến đâu những câu hỏi như ‘Một kì nghỉ tốt là như thế nào?’ hay ‘Một mối quan hệ có ý nghĩa gì?, ‘Một cuộc đối thoại nên thế nào?’ hay ‘Tại sao ta lại cần tiền’, ta sẽ có nguy cơ bị phớt lờ, bị coi như một đứa ngớ ngẩn - như thể những câu hỏi lớn như vậy không thể trả lời được.

 

Chúng ta đã sở hữu rất nhiều những mảnh thông tin rời rạc, vô tổ chức nhưng quan trọng trong việc giúp chúng ta đối đầu với thế lưỡng nan. Ta đã có đủ những lần chơi bời và mua sắm, ta đã đủ những mối quan hệ và những lần nhảy việc, ta đã có cơ hội quan sát những liên kết giữa việc ta làm và cái ta cảm nhận - và trên lý thuyết ta cũng có đủ thứ để có thể đưa ra được những kết luận sâu sắc về hạnh phúc và mục đích cũng như ý nghĩa cuộc đời. Ta đã có dữ liệu; thách thức là làm sao để biến nó thành câu trả lời cho những câu hỏi lớn.

 

Ta phải dám chuyển từ tư duy thực thi sang tư duy chiến lược.

 

Làm sao để thay đổi tư duy?

 

Bước đi tức thời là để ý nhiều hơn vào việc ta dành thời gian làm gì: có lẽ chúng ta dành tới 95% thời gian tỉnh táo để hành động và 5% để suy nghĩ. Nếu biết được sự thiên vị này, ta có thể dành ít nhất 20% nỗ lực của mình trong việc nghĩ sâu hơn về câu hỏi ‘tại sao’ - trước khi ta cho phép mình được thư giãn với thói quen hành động hàng ngày.

 

Ta nên ghi nhận những câu hỏi khó chịu như: Cái này có đáng để mình nỗ lực không? Mình sẽ ở đâu trong vài năm tới nếu điều này là đúng? Cái này thì liên quan gì đến việc hoàn thiện con người mình? Cái này có ý nghĩa gì? Và ta nên cân nhắc kĩ lưỡng trước khi vội vã lao mình vào một dự án nào đó, để lo lắng về những trục trặc nhỏ và để đảm bảo rằng ta quá bận rộn nên không dành thời gian để suy nghĩ được. Ta cần một cảm giác chung rằng làm việc tận tụy là như thế nào. Đó có thể không phải là người chạy từ cuộc họp này tới cuộc họp khác, hay liên tục trả lời các cuộc điện thoại mới là bận rộn; đó có thể là người ngồi bên cửa sổ, ngắm mây bay, thỉnh thoảng lấy tay vỗ vỗ vào đầu và viết gì đó vào cuốn sổ tay.

 

Ai mới đang thực sự làm việc?


 


Ta cần phải hiểu được rằng tư duy chiến lược có thể mang lại cảm giác không dễ chịu. Ta cần được đảm bảo rằng ta không xấu xa hay lơ đãng trong khi cố gắng ‘tay nhanh hơn não’ - và tha thứ cho chính bản thân mình khi cố gắng né tránh những câu hỏi lớn. Ta cần nguồn động viên để suy nghĩ về mục đích và ý nghĩa ngay cả khi cám dỗ to lớn đang chiếm lấy ý thức chúng ta là chôn sâu bản thân vào việc giao thiệp hay đọc lướt các tin tức.

 

Vào thời Trung Cổ, người ta đều thống nhất cho rằng điều quan trọng nhất trong việc suy tư là suy tư về Chúa. Ngày nay thứ duy nhất mà ta phải tập trung chú ý là mục tiêu của mình. Nhưng trong thời Trung Cổ, những nhân vật hàng đầu đã chuẩn bị cho việc chấp nhận rằng những sự tập trung kéo dài không bị xao nhãng là một nhu cầu thiết yếu. Họ biết rằng tâm trí chúng chúng ta mong được giải thoát tới mức nào - và nhận ra rằng một người có thể cần tới những bước chuyển kinh ngạc để giữa được tập trung. Một trong những bước quan trọng là việc xây dựng lên các tu viện.

 

Tu viện đã tạo ra một bước cải tiến nổi tiếng trong lĩnh vực tập trung. Nó chứng minh rằng để cho tâm trí được yên bình, một người cần sống xa thành thị, thường là ở chân một dãy núi, một thung lũng hay một vùng nông thôn vắng người. Như một lời nhắc nhở liên tục về tầm quan trọng của những gì người ta đang làm, kiến ​​trúc sẽ phải được trang trọng và hùng vĩ. Các bức tường phải cao, dày và không có nhiều cửa ra vào hay các cửa sổ nhìn ra thế giới rộng lớn hơn. Cần phải có sân trong yên tĩnh và đài phun nước để làm dịu tâm trí bằng âm thanh của nước chảy. Phòng ngủ sẽ phải trống trơn, chỉ có một chiếc giường và bàn - nhưng vẫn cần phải có chất lượng cao. Thiên chúa giáo thời Trung Cổ đã tạo ra cả những quy tắc về việc sống trong các tu viện. Một trong những quy tắc lâu đời và có ảnh hưởng nhất được đặt ra bởi một tu sĩ người Roma sống ở thế kỉ V có tên Benedict, người đã tạo ra nhiều thư viện ở Italy và viết một bộ luật cho các tín đồ của mình:

 

Nó vô cùng nghiêm khắc và rõ ràng, bao gồm những thứ sau:

 

Ăn

 

Điều luật thứ 39: Ngoại trừ những người ốm yếu, cần cực kì hạn chế ăn thịt từ động vật bốn chân.

 

Một quy tắc giúp người ta ăn uống khiêm tốn, nhưng bổ dưỡng chỉ hai lần một ngày. Cừu và bò không được khuyến khích bởi vì chúng gây buồn ngủ, nhưng cá và gà ở một lượng nhỏ thì được phép. Trong bữa ăn, mọi người không được nói chuyện với nhau nhưng có thể nghe người khác đọc một cuốn sách quan trọng. Nếu cần thứ gì đó, người ta phải ra hiệu bằng tay.

 

Im lặng

 

Người ta cần phải giữ yên lặng gần như cả ngày và chỉ được nói ở một số nơi vào một số thời điểm nhất định. Những lời đồn đại, buôn chuyện độc hại bị cấm bởi vì chúng có thể rất dễ lan truyền.

 

Đầu tóc và quần áo

Để tránh bị phân tâm, một người phải mặc quần áo giống như những người còn lại trong cộng đồng: một thứ gì đó giản dị và tiện dụng. Không quá đắt tiền. Và để tránh một người nghịch tóc người khác, cần phải cạo sạch tóc.

 

Thể dục

 

Điều luật số 35: Hãy để các anh em phục vụ lẫn nhau, và không ai được miễn trừ phải làm bếp trừ lí do ốm đau.

 

Nếu một người sẽ tập trung rất nhiều vào suy tư và hoạt động trí tuệ, người đó cần phải thực hiện một số hoạt động thể chất hàng ngày, một cái gì đó lặp đi lặp lại và nhẹ nhàng như quét sàn hoặc làm cỏ một hàng rau diếp.

 

Thói quen

 

Một người phải ngủ sớm và dậy sớm. Thói quen phải thực sự nghiêm khắc và phải lặp đi lặp lại từ ngày này sang ngày khác.

 

Tình dục

 

Mọi người phải ăn mặc và cư xử tử tế. Không khuyến khích việc trao đổi cảm xúc tình dục. Vì tình dục là việc phá hủy những nỗ lực tập trung.

 

Nghệ thuật

 

Tại nhiều điểm chiến lược của tòa nhà, người ta sẽ thấy những tác phẩm nghệ thuật đẹp và ấn tượng để nhắc nhở về sự quan trọng của tư duy của người khác.

 

Ngày nay, chúng ta thường không bận tâm tới việc tập trung qua mối quan hệ của chúng ta với Chúa. Vấn đề mất tập trung phát sinh khi ta đang suy ngẫm lại mục tiêu của mình: ta liên tục cảm thấy mơ màng, suy đoán rằng ai đó ở đâu đó có một đôi giày hay một đôi tai nghe, hay để ý rằng tóc ai đó đang lòa xòa sau lưng họ. Như một cách để ngưng sự lấn át của việc mất tập trung, một người có thể dựa theo quy tắc của Thánh Benedict để có thể có tưy duy chiến lược.

 

Chế độ ăn

 

Sự chú ý tỉ mỉ đến tác động của cái mà người ta đang ăn vào cách người ta suy nghĩ. Tập trung ăn rau và, có thể là một chút cá để bữa ăn nhẹ nhàng hơn.



Đồng phục công sở

 

Thanh lịch nhưng khiêm tốn để làm dịu đi những dục vọng.

 

Tập thể dục

Một chế độ vừa đủ những hoạt động như làm vườn hoặc sửa chữa đồ dùng giữa những giai đoạn tư duy.

 

Bớt sử dụng Internet

 

Nghe có vẻ ấu trĩ và lạc hậu, nhưng sẽ phải thừa nhận rằng một số công nghệ khiến ta không thể tự kiểm soát bản thân và làm ta ước gì mình không dành cả cuộc đời để xem tin tức.

 

Kiến trúc

 

Yên tĩnh và hùng vĩ; văn phòng giúp chúng ta sống trong công việc.

 

Nghệ thuật

 

Nhắc nhở sự cao quý của lao động tư duy. Những hình ảnh đẹp của những người suy nghĩ trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ.

 

Các tu viện như nhắc nhở thực tế rằng nếu chúng ta muốn tập trung tâm trí vào những việc nghiêm túc và khó khăn, chúng ta có thể làm ra một số thứ cực đoan khiến người khác cảm thấy kì quái và sững sờ. Chúng ta, nếu muốn tư duy hiệu quả hơn, cần phải xây cho chính mình một tu viện trong tâm trí.

Theo The School of Life: How We Prefer to Act Rather Than Think.

Tags: