Phân tích chứng khoán: Cuốn kinh thánh cho đầu tư giá trị
Phân tích chứng khoán: Cuốn kinh thánh cho đầu tư giá trị

“Ngày thứ Ba đen tối” năm 1929 gần như đã đốn gục Benjamin Graham, người chỉ vừa mới bắt đầu giảng dạy tại đại học Columbia một năm trước. Cuộc đại khủng hoảng này đã tạo động lực cho Graham tìm kiếm cách đầu tư an toàn và thận trọng hơn - điều ông đã luôn ủng hộ trong các bài báo cho tạp chí tài chính mà ông chấp bút. Graham đồng ý giảng dạy tại trường Columbia, và cần một  một người nào đó làm trợ lý. Dodd, một giảng viên trẻ tuổi ở Columbia đã tình nguyện, và sau đó hoàn thành chương trình Tiến sĩ của ông dưới sự hướng dẫn của Graham. Những bản ghi này sau đó đã trở thành cơ sở cho cuốn Phân tích Chứng khoán và giới thiệu đến bạn đọc khái niệm đầu tư giá trị. Mặc dù cuốn sách đã trải qua hàng loạt thay đổi trong suốt 3/4 thế kỷ nhưng nó vẫn được in và sử dụng làm hướng dẫn giảng dạy cho đến tận bây giờ, chứng minh giá trị vượt thời gian của cuốn sách.

Phân tích Chứng khoán là cuốn sách đầu tư toàn diện nhất từng được viết, cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại, và Warren Buffett cũng nhiều lần ca ngợi những đầu tư thành công và kỹ năng định giá mà ông đã đạt được qua cuốn sách, ông thậm chí còn gọi cuốn sách này là “Kinh thánh của tôi”. Phân tích Tài Chính phác thảo ba khái niệm chính:

- Sự khác biệt giữa đầu tư và đầu cơ là gì?

- Mỗi công ty thực sự làm ra bao nhiêu tiền?

- Bảng cân đối kế toán có thể tiết lộ bao nhiêu sự thật về công ty đó?

 

 

Sự khác biệt giữa đầu tư và đầu cơ là gì?

 

Theo Graham, một nhà đầu tư thông minh phải xác định xem điều gì thực sự có ý nghĩa để đầu tư thậm chí trước cả khi cân nhắc đến việc mua chứng khoán. Nhiều người có thể nghĩ rằng họ đang đầu tư, nhưng trong thực tế, họ chỉ đang đối mặt với những rủi ro không đáng có và phụ thuộc vào triển vọng tăng trưởng không thực tế.

Khi bạn đầu tư, hành động tiên quyết cần hướng đến là bảo vệ khoản vay gốc và sau đó tìm kiếm một khoản sinh lời chấp nhận được chứ không phải là tìm kiếm mức lợi nhuận cao đầu tiên rồi sau đó mới đánh giá xem rủi ro liên quan đến đầu tư đó có hợp lý không. Nhiều người xem trái phiếu như là một lựa chọn đầu tư vững chắc chứ không tiềm ẩn nhiều rủi ro như chứng khoán. Lý do cho niềm tin chung trong trái phiếu này bởi vì nó thực sự là khoản vay do bên sở hữu trái phiếu và công ty phát hành trái phiếu. Người phát hành trái phiếu có nghĩa vụ phải trả lãi cho nhà đầu tư trước khi thực hiện các nghĩa vụ khác như trả cổ tức cho chủ sở hữu cổ phiếu và tái đầu tư thu nhập tiềm năng để phát triển kinh doanh. Theo Graham, các chứng khoán có thu nhập cố định như trái phiếu có các đặc điểm vốn có làm cho chúng được đánh giá như là sự lựa chọn đầu tư vững chắc, nhưng nhà đầu tư không bao giờ nên quên rằng rủi ro của bất kỳ chứng khoán nào đều phụ thuộc vào tài sản cơ bản.

Kết quả hình ảnh cho Benjamin graham

Bởi vì trái phiếu là một khoản vay, mà khoản vay thì không bao giờ có thể an toàn hơn chất lượng của tổ chức phát hành mà bạn quyết định cho vay. Ngay cả một công ty lớn phát hành trái phiếu cũng có thể là đầu cơ hơn là đầu tư nếu nó đang gặp khó khăn về tài chính. Tương tự, cũng sai khi kết luận rằng cổ phiếu luôn có xu hướng suy đoán. Trong khi cổ phiếu thường có vẻ rất biến động, nhà đầu tư nhận thấy rằng giá trị cơ bản của cổ phiếu là giá trị của doanh nghiệp mà nó đại diện. Việc sở hữu một bộ phận kinh doanh thực tế có lợi nhuận ổn định không làm cho việc đầu tư mang tính đầu cơ ngay cả khi giá của cổ phiếu đột nhiên giảm xuống khỏi màu xanh.

Trong lĩnh vực đầu tư, bất kỳ giao dịch chứng khoán nào cũng phải được chứng minh cả về chất lượng lẫn số lượng trước khi mua. Một phân tích định lượng của một công ty bao gồm sự kiểm tra kỹ lưỡng các báo cáo tài chính trong 10 năm qua. Kiểu phân tích này bao gồm việc tính toán một số tỷ số quan trọng và sự hiểu biết sâu sắc về lý do tại sao tỷ lệ này lại thay đổi. Một phân tích định tính được tiến hành bằng cách nhìn vào tương lai với những nỗ lực để ước tính những gì có thể xảy ra. Mặc dù tương lai luôn luôn là không chắc chắn, nhưng nhà đầu tư thì sẽ dựa vào ước tính và các kiến thức của mình về chứng khoán, trong khi người đầu cơ có nhiều khả năng chỉ là suy đoán.

Kết quả hình ảnh cho Đầu tư và đầu cơ

Đây cũng là điểm phân biệt quan trọng giữa đầu tư và đầu cơ. Một nhà đầu cơ hy vọng rằng tương lai sẽ tạo cơ hội tốt hơn so với quá khứ và dựa vào tăng trưởng trong tương lai để biện minh cho giá thị trường hiện tại. Trong đầu tư thông minh, nhà đầu tư có thể hy vọng rằng tương lai sẽ tốt hơn, nhưng không phải là dựa vào một tương lai tươi sáng hơn. Ngay cả khi tương lai không có thu nhập tăng cao, nhà đầu tư vẫn có lợi nhuận vững chắc giữa những ước tính giá trị của tài sản là và cái giá ban đầu nhà đầu tư đưa ra.

Graham cũng làm sáng tỏ sự hiểu lầm giữa những suy đoán và đầu tư mà ông ta thường thấy. Đó là một sự hiểu nhầm xuất phát từ nhận thức rằng nhà đầu tư phải kiên nhẫn, đó là sự thật, nhưng thường được áp dụng sai. Nhiều người nhận thức được sự cổ phần dài hạn theo định nghĩa là đầu tư, trong khi cổ phần tạm thời lại tập hợp đầu cơ. Đối với nhiều người, "cổ phần dài hạn" là các nhóm cổ phiếu thể hiện sự miễn cưỡng bán của nhà đầu tư, do lo sợ thiệt hại phát sinh. Thay vào đó, nhà đầu tư vẫn tiếp tục nắm giữ các cổ phiếu bị xuống giá với hy vọng nó sẽ tăng giá. Sự nhầm lẫn này, dù xem xét như thế nào, cũng chỉ là một suy đoán.

 

 

Mỗi công ty thực sự làm ra bao nhiêu tiền?

 

Đối với nhiều nhà đầu tư mới, nguyên tắc khi đọc một báo cáo thu nhập rất đơn giản. Họ nhìn vào dòng dưới cùng, nơi có thu nhập ròng, và coi như là chấp nhận số liệu đó. Có lẽ, đây là số tiền mà công ty đang kiếm ra. Nhưng một khi bạn tìm hiểu về Phân tích chứng khoán, bạn sẽ rất ngạc nhiên khi Graham giới thiệu nhiều phương pháp kế toán thể hiện mức thu nhập thuần được báo cáo lệch với số tiền mà công ty đang thực hiện. Mặc dù một số kỹ thuật này được cố ý thực hiện để làm sai lệch thông tin cho nhà đầu tư, nhưng thường thì nó chỉ đơn giản là vấn đề hiểu biết về kế toán, bắt buộc phải hiểu cách đọc báo cáo tài chính.

Kết quả hình ảnh cho security analysis illustration

Một trong những khoản mà nhà đầu tư nên chú ý đến là chi phí và doanh thu "không thường xuyên". Chúng ta hãy cùng xem xét khái niệm đó. Hãy tưởng tượng một công ty có lợi nhuận thường kiếm được 1.000.000 đô la lợi nhuận hàng năm với một loạt các khoản đầu tư lớn không liên quan và kiếm được 2.000.000 đô la cho một năm cụ thể. Dự đoán của bạn về lợi nhuận của công ty bây giờ là gì? Nếu bạn chú ý đến điểm mấu chốt, bạn sẽ thấy lợi nhuận là $ 3,000,000, nhưng đó thực sự là con số bạn muốn dùng để định giá? Tận dụng cốt lõi trong kinh doanh, công ty đang kiếm được $ 1,000,000 và đây là giá trị hợp lý nhất để đánh giá công ty; tuy nhiên, không có gì đảm bảo rằng lợi nhuận từ các doanh nghiệp không liên quan sẽ lặp lại. Nếu bạn được trang bị những kiến ​​thức về đọc hiểu không chỉ dòng cuối cùng trong báo cáo tài chính (Lợi nhuận ròng) mà cả những giá trị riêng biệt khác nữa, bạn sẽ không rơi vào cái bẫy của việc trả giá quá mức cho cổ phiếu của công ty được hưởng lợi từ một năm may mắn.

Kết quả hình ảnh cho security analysis illustration

Graham so sánh việc nghiên cứu các báo cáo tài chính giống như một công việc của thám tử. Tất cả mọi thứ không giống như những gì nó thể hiện - đặc biệt là ở lợi nhuận ròng. Công việc của nhà phân tích, hay thám tử, là để tìm ra "thu nhập bình thường" của công ty là gì. Mặc dù không có công thức chính xác cho vấn đề này thì xem xét các số liệu trong quá khứ cũng vẫn sẽ là một điểm khởi đầu tốt.

Khi nhìn vào những thu nhập trong quá khứ, Graham cũng cảnh báo các nhà phân tích về một sự hiểu lầm rất phổ biến: Xu hướng này đang bị phóng đại quá mức. Ví dụ: nếu EPS của cổ phiếu (Earnings per Share - Thu nhập trên mỗi cổ phiếu) tăng đều mỗi năm 1 đô la, ví dụ từ 3 đô la đến 7 đô la trong 4 năm qua, điều này sẽ không đảm bảo rằng lợi nhuận của năm tới sẽ là 8 đô la, và thậm chí còn có ít cơ hội hơn trong việc xu hướng tăng này vẫn sẽ duy trì trong tương lai. Rõ ràng, một xu hướng tích cực là tốt, nhưng các nhà phân tích nên cự kì thận trọng và dựa vào thu nhập hiện tại hơn là đặt hy vọng của mình vào tương lai. Tương tự, khi xảy ra một xu hướng giảm trong thu nhập, nó cũng sẽ không là một dấu hiệu chính xác để nhà đầu tư giả định một tình thế tiêu cực sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai. Trong thực trạng cả lĩnh vực đầu tư đều đang suy thoái, thì công ty với sự tổn thất ít hơn thậm chí có thể trở thành sự lựa chọn đầu tư tốt nhất khi làn sóng hồi phục kinh tế quay trở lại.

Kết quả hình ảnh cho stock illustration

Không phải các biến động, chính thu nhập ổn định mới là yếu tố cho phép dự đoán hiệu quả hơn những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Các sản phẩm mới là những ví dụ điển hình về thu nhập không ổn định. Chi phí bảo hiểm thường được thanh toán cho các cổ phiếu của các công ty đó, điều này thường làm cho các nhà đầu tư hối hận. Ban đầu, công ty nằm ở vị trí hàng đầu của thị trường sẽ chiếm được thị phần lớn và đặt ra một mức giá cao với tỷ suất lợi nhuận cao. Nhưng những sản phẩm mới gia nhập thị trường sẽ làn giá của dòng sản phẩm này giảm xuống và sẽ khó lòng có thể suy trì lợi nhuận cao nữa.

Thu nhập trong tương lai có thể được ước tính nếu bạn thực sự hiểu ngành và doanh nghiệp mà bạn muốn đầu tư. Ngay cả những công ty tốt nhất cũng có thể bị mất tiền trong thời gian tồi tệ và ngay cả những công ty tồi tệ nhất có thể có lợi nhuận khi điều kiện thị trường là hoàn hảo. Nhà phân tích luôn phải cân nhắc về mọi yếu tố trong lĩnh vực đầu tư, và cả cách mà doanh nghiệp cụ thể có thể phản ứng lại những thay đổi.

 

 

Bảng cân đối kế toán có thể tiết lộ bao nhiêu sự thật về công ty đó?

 

Là nhà đầu tư thông minh, bạn cần phải biết nghiên cứu các loại báo cáo tài chính khác nhau để có được cái nhìn toàn cảnh về công ty. Báo cáo về thu nhập chỉ hiển thị một mặt của vấn đề, nhưng ta không thể tiến hành phân tích tài chính mà không xem xét lại bảng cân đối kế toán. Một trong nhiều mục đích của bảng cân đối kế toán, và có lẽ quan trọng nhất, là khả năng xác định những điểm yếu về tài chính.

Kết quả hình ảnh cho balance sheet illustration

Một điểm yếu tài chính điển hình cần lưu ý là liệu nợ ngắn hạn có khả năng thanh toán bằng tiền mặt thì có thể được lưu thông trong tương lai gần hay không. Nếu không, công ty có thể sẽ phải chịu thêm khoản nợ. Vì lý do này, Graham chỉ ra rằng nhà đầu tư phải tìm ra các công ty có tỷ lệ hiện tại ít nhất là 1,5-2,0. Thêm vào đó, ông thậm chí còn gợi ý rằng hệ số thanh toán nhanh trên 1 là cần thiết, có nghĩa là các khoản nợ ngắn hạn vẫn có thể được đáp ứng, ngay cả khi công ty không bán bất kỳ hàng tồn kho nào trong 12 tháng tới. Bảng cân đối cũng cho thấy công ty có cơ cấu tài chính như thế nào. Một công ty có lợi nhuận cao được đầu tư chủ yếu bằng nợ, chứ không phải bằng vốn cổ phần, có thể sẽ rơi vào tình trạng khó khăn khi phải đối mặt với khủng hoảng

Một điểm hữu ích khác bạn sẽ học được khi đọc Phân tích Chứng khoán đó là nhiều nhà đầu tư xem xét bảng cân đối kế toán với mục đích chính là tìm giá trị ghi sổ. Giá trị ghi sổ là giá trị lý thuyết của tài sản khi nợ được khấu trừ. Mặc dù Graham tin rằng đó là một biện pháp quan trọng cần được để ý đến, ông cũng cảnh báo các nhà đầu tư nên cẩn thận. Có quá nhiều nhà đầu tư đã tìm thấy các công ty có giá trị ghi sổ dưới 1 và đã bị shock hoàn toàn khi giá cổ phiếu không leo thang. Lý do là vì các công ty không giao dịch dưới giá trị ghi sổ là 1 vì các nhà đầu tư có thể mua công ty và thanh lý nó cho một khoản lợi nhuận khiến cho giá trị có thể tăng lên theo thời gian.

Hình ảnh có liên quan

Giá trị ghi sổ, giống như bất kỳ tỷ lệ quan trọng nào khác đều có thể bị thao túng, nhưng đó không phải là lý do chính cần phải lo lắng. Bí mật nằm ở việc đọc từng tài khoản riêng trong bảng cân đối kế toán để đánh giá giá trị thanh lý đích thực của tài sản là gì. Ví dụ, giá trị sổ sách kiểm kê cho một công ty bán thực phẩm chắc chắn sẽ không phù hợp với giá thị trường nếu hàng hoá phải được bán vội. Bảng cân đối kế toán cũng có thể xác nhận thu nhập được tìm thấy trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Hãy tưởng tượng một công ty bán đồ uống theo hình thức tín dụng (hiểu nôm na là bán chịu). Điều này không quá khó vì doanh thu tín dụng là một thực tế rất phổ biến được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Bây giờ, hãy tưởng tượng rằng công ty muốn tăng lợi nhuận bằng cách sử dụng tín dụng. Do đó, công ty bắt đầu cung cấp tín dụng cho khách hàng lâu hơn và thậm chí mở rộng dịch vụ cho các công ty có xếp hạng tín dụng thấp hơn mức mà họ sử dụng. Trong báo cáo kết quả kinh doanh, nó sẽ giống như công ty đó đã tăng lợi nhuận - ít nhất là trong ngắn hạn; Tuy nhiên, bạn thực sự có thể thấy tín dụng dành cho khách hàng đang tăng lên như thế nào, khiến cho nhà đầu tư thận trọng và lo lắng nhiều hơn về nguy cơ của một công ty nước giải khát thậm chí không nhận được tiền, hơn là thích thú về việc lợi nhuận tăng tạm thời.

Phanh

Trạm Đọc.

Tham khảo: http://www.buffettsbooks.com

 

Tags: