CEO Koch Industries: “Nếu một công ty hoạt động không hiệu quả, thì lãnh đạo là người phải chịu trách nhiệm”
CEO Koch Industries: “Nếu một công ty hoạt động không hiệu quả, thì lãnh đạo là người phải chịu trách nhiệm”
Charles Koch - CEO Koch Industries - thường được nhắc tới là một tỷ phú với những ảnh hướng tới nền kinh tế và chính trị nước Mỹ. Trong hơn nửa thế kỷ, tỷ phú nổi tiếng bí mật từ Wichita này đã biến Koch Industries từ một công ty cỡ trung bình thành một tập đoàn có ảnh hưởng to lớn đối với nền kinh tế và đời sống công cộng của Mỹ. Vậy từ đâu mà ông có thể làm được điều đó? Đoạn trích dưới đây từ cuốn sách "Kochland - Đế chế Koch" sẽ phần nào giúp bạn trả lời câu hỏi này.
KOCHLAND: ĐẾ CHẾ KOCH
(24 lượt)
Charles Koch tự lái xe đi làm mỗi ngày. Dù là một tỷ phú nhưng ông vẫn đi một chiếc sedan giản dị. Ông đến Tòa tháp từ sớm và thường đi bộ lên cầu thang sau để tới phòng làm việc trên tầng 3. Charles là người quyền lực nhất trong công ty. Trong suốt thời gian làm việc trong ngày, ông hiếm khi gặp các cấp dưới không trực tiếp. Mỗi khi ngồi vào bàn làm việc, nhìn ra đồng cỏ phẳng lặng ở phía bắc Wichita, có thể nói Charles là một thất bại xét trên nhiều khía cạnh quan trọng. 

Thập kỷ trước là một sự xấu hổ bẽ bàng trước công chúng đến độ hình ảnh Koch Industries được khắc họa trên báo chí đại chúng với toàn chuyện kiện tụng và lách luật. Còn Charles Koch bị báo chí mô tả như nhân vật chính trong mối thù hận huynh đệ tương tàn, hé lộ sự điên rồ của các tỷ phú. Nếu viết về nhiệm kỳ CEO của Charles Koch, thật khó để không đặt câu hỏi về năng lực lãnh đạo của ông. Ông đã dành nhiều năm để mài giũa một triết lý quản lý gieo rắc nhiều vấn đề trong công ty. Những người phụ trách đo lường các giếng dầu diễn giải việc Koch thúc đẩy “cải tiến liên tục” là nhằm đánh cắp từ khách hàng. Còn các quản lý nhà máy lọc dầu lại cho rằng việc Koch thiết lập “các trung tâm lợi nhuận” là để xả ô nhiễm vào các đầm lầy và trì hoãn những khoản đầu tư để xử lý ô nhiễm. Những giáo lý thông thương của phương pháp MBM thường xuyên bị biến thành lối tư duy tập thể trì trệ, để rồi khiến các quản lý hành hạ những người “chỉ điểm” thay vì lắng nghe các cảnh báo quan trọng của họ. Xu hướng chạy theo tăng trưởng của MBM đã khuyến khích các vụ thâu tóm, sáp nhập vô trách nhiệm dẫn đến thua lỗ và thất bại công khai như vụ sự sụp đổ của Purina Mills. Koch Industries vẫn rủng rỉnh tiền mặt, nhờ vào thị trường dầu mỏ được điều tiết chặt chẽ và trợ cấp rất lớn được cho vẫn là hoạt động kinh doanh cốt lõi của công ty. Nhưng sự thất bại của Koch Argiculture dường như đã chứng minh rằng MBM trên thực tế không phải là một bí kíp thực hiện thành công các dự án trong những lĩnh vực kinh doanh khác. 

Điều này rất quan trọng đối với Charles Koch. Ông tin rằng CEO là người chịu trách nhiệm chính về việc điều hành công ty. Nếu một công ty hoạt động không hiệu quả, thì lãnh đạo là người phải chịu trách nhiệm. Như ông đã nói khi bị các nhà điều tra Thượng viện yêu cầu điều trần: “90% các vấn đề trong ngành là do quản lý, không phải do công nhân. Người quản lý nên là người bị sa thải nếu có vấn đề xảy ra.” Theo logic này, Charles Koch nên bị sa thải. Charles Koch đã nói rằng cuối thập niên 1990 là một trong những thời khắc khó khăn nhất cuộc đời ông. 

“Điều tồi tệ nhất là khi chúng tôi ở phiên tòa đó, bị kiện bởi một thành viên gia đình, các cổ đông và tất cả những thứ này,” ông nhớ lại. “Và tôi nghĩ: ‘Chúa ơi, hãy nhìn xem - sau khi chúng con kiếm được bao nhiêu là tiền bạc cho họ, đây là những gì chúng con nhận được?’ Thật đáng thất vọng… Chỉ là… tôi đã mất một thời gian để quen với việc đó.”

Dù vậy, hằng ngày, Charles Koch vẫn tự lái xe đi làm. Ông đậu chiếc sedan giản dị của mình ở bãi đỗ xe dành cho nhân viên, đi lên cầu thang hậu và ngồi vào bàn làm việc từ rất sớm. Ông trở về nhà muộn vào buổi tối và thường mang theo giấy tờ để xem lại. Và trong những ngày dài của tuần làm việc, khi ngồi ở vị trí đó, Charles Koch đã nhìn thấy một thứ mà không ai khác có thể thấy. Ông thấy thực trạng của Koch Indusries. Công ty đã chủ đích tạo ra sự không minh bạch và bí ẩn, mạng lưới phòng ban quá phức tạp cùng những chi nhánh lan rộng đến mức ngay cả một số lãnh đạo lâu năm của công ty cũng không biết hết về cơ cấu đầy đủ của tổ chức. Nhưng có một tiêu điểm mà từ đó có thể quan sát toàn bộ cỗ máy - đó là từ bàn làm việc của Charles Koch. Ông là người duy nhất có thể quan sát toàn bộ cỗ máy một cách chân thực. Và ông đã đặt lòng tin vào nó. 

Charles Koch ở vị trí có thể nhìn thấy hạt giống của sức mạnh Koch Industries; những hạt giống có thể đã bị người khác bỏ qua trong cuộc hỗn loạn của những năm 1990. Ông đã nhìn thấy tất cả những yếu tố sau này đưa Koch Industries trở thành một trong những tập đoàn lớn, hùng mạnh nhất ở Mỹ. Quản lý dựa trên Thị trường có thể đã dẫn đến những thất bại trong kinh doanh, nhưng nó đã đạt được một điều: Nó đã trở thành ngôn ngữ chung của tất cả những nhân viên làm việc tại Koch. Nó trao truyền cho mọi người một sứ mệnh chung, và đây là điều quan trọng hơn chúng ta nghĩ. Đến năm 2000, tập đoàn Koch Industries đã là một liên đoàn rộng lớn gồm các đơn vị bao phủ nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Như kinh nghiệm của nhiều công ty cho thấy, đây có thể là công thức dẫn đến thảm họa: Nó có thể thúc đẩy sự phân mảnh, tê liệt truyền thông và các mảng quản lý cạnh tranh lẫn nhau. Nhưng Charles Koch đã khắc sâu vào từng nhân viên triết lý về giá trị - sự cần thiết - của MBM. Nhiều năm làm việc này đã tạo ra một lực lượng lao động thống nhất, một lực lượng lao động mà ở đó nhân viên có thể dịch chuyển từ bộ phận này sang bộ phận khác và hiểu rõ nhau. 

Trên thực tế, một thế mạnh khác là các nhân viên của Koch có suy nghĩ với tầm nhìn dài hạn. Đó là sức mạnh mà Charles Koch đã chiến đấu hết mình để có được. Ông đã dành nhiều năm chiến đấu để duy trì sự riêng tư cho công ty, chiến đấu trước tòa với em trai và các cổ đông bất đồng ý kiến trong nhiều năm. Ông thậm chí đã chiến đấu chống lại lối tư duy truyền thống để biến điều này thành hiện thực, không chỉ bằng cách giữ lại quyền sở hữu mà còn phải từ chối để công ty mất đi một khoản cổ tức lớn. Phần thưởng cho chiến thắng này là khả năng tư duy lợi ích dài hạn trong nhiều năm và thập kỷ hơn là về thu nhập hằng quý hoặc báo cáo hằng tháng.   

Một sức mạnh khác là tri thức. Charles Koch đã xây dựng một tổ chức học tập và không ngừng học hỏi. Mỗi giao dịch là một điểm dữ liệu, mỗi mối quan hệ là một đường dẫn thông tin, mỗi đơn vị kinh doanh là một bài chia sẻ. Theo chỉ đạo của Charles Koch, công ty đã lấp đầy toàn bộ các phòng trong tầng hầm của mình bằng máy tính với khả năng xử lý, trộn và phân tích hàng núi thông tin. Koch đã xây dựng một công ty xoay quanh việc học. 

Charles tin rằng có những định luật định lượng thúc đẩy thế giới, những định luật không thể phá vỡ, những định luật đó luôn đúng dù người ta có tin vào nó hay không. Những định luật này là các nguyên tắc mà ông dựa vào để sống và điều hành công việc kinh doanh của mình. Ông không bao giờ nghi ngờ những nguyên tắc này, ngay cả trong những ngày đen tối nhất vào cuối thập niên 1990. Các nguyên tắc đã chính xác. Ông chỉ đơn giản là đã phạm sai lầm khi thực hiện chúng. 

Vì vậy, ông sẽ làm tốt hơn nữa. Giải pháp của ông rất đơn giản: “Tôi chỉ cần làm việc chăm chỉ hơn nữa.” 

------------- 

sach-de-che-koch

“Kochland” là cuốn sách lớn thứ ba khám phá ảnh hưởng của Đế chế Koch, sau hai cuốn sách nổi tiếng trước đó là Sons of Wichita: How the Koch Brothers Became America's Most Powerful and Private Dynasty (Tạm dịch: Những đứa con của Wichita: Cách anh em nhà Koch xây dựng đế chế riêng và trở thành nhân vật quyền lực nhất nước Mỹ) và Dark Money: The Hidden History of the Billionaires Behind the Rise of the Radical Right (Tạm dịch: Đồng tiền đen tối: Lịch sử ẩn giấu của các tỷ phú đằng sau sự trỗi dậy của phe cực hữu). Tuy nhiên, đây là tác phẩm đầu tiên cung cấp thông tin tường tận, đầy đủ về nguồn gốc quyền lực của anh em nhà Koch.

Cuốn sách là công trình nghiên cứu đồ sộ, toàn diện, đòi hỏi nguồn thông tin từ rất nhiều cá nhân, đơn vị liên quan đến Charles Koch và đế chế của ông. Do vậy, nhằm giúp độc giả theo dõi, nắm bắt và tra cứu dễ dàng, Leonard đã cung cấp một phụ lục hữu ích bao gồm tiểu sử tóm tắt của các nhân vật chính cùng danh sách các nhóm phi lợi nhuận, các tổ chức tư vấn và vận động hành lang được đề cập trong cuốn sách này. 
Tags: